Nhạc miền Bắc, thường được gọi là nhạc đỏ (3), phủ nhận cái “bi”, thể hiện ý chí, ước muốn chiến thắng cả trong giai điệu lẫn trong ca từ. Các sản phẩm nghệ thuật nói chung và nhạc nói riêng, đều đuợc nhà nước kiểm soát một cách vô cùng chặt chẽ.
Họ không chấp nhận bất cứ một sự xé rào nào, dù là nhỏ nhặt nhất. Mọi bi quan đều bị đè bẹp. Mọi tiêu cực đều bị lên án, bị triệt tiêu. Người bộ đội chỉ biết tiến lên, chỉ biết “nhắm thẳng quân thù mà bắn”.
Bởi thế, nhạc đỏ không nhằm mục đích phản ảnh hiện thực, không thể hiện tâm lý của người dân trong thời chiến, lại càng không thể hiện một chút nào tâm tình riêng tư của người lính.Một số đặc điểm có thể nêu ra để giúp ta phân biệt nhạc đỏ với những dòng nhạc khác:
- Thể hiện tính đấu tranh giai cấp, sự phân biệt địch-ta và tinh thần “ta nhất định thắng, địch nhất định thua” rất rõ ràng.
- Lời ca và giai điệu luôn luôn lạc quan, tuyệt đối không biểu lộ tư tưởng chủ bại hoặc yếm thế. Không đề cập đến nỗi thương đau, sự buồn chán hay chết chóc.
Thanh niên quê tôi làm chiếc gậy hành quân. Đặt cho tên gọi là chiếc gậy trường sơn. Luyện cho đôi chân vượt đường xa không mỏi, luyện cho tinh thần là chỉ tiến không lui. Gậy trong tay mồ hôi đã bóng, màu gỗ quê hương mang cả mối tình dân. Như nhắn nhủ những ai lên đường mà lời hứa với bao người thân.(Chiếc gậy Trường Sơn, Phạm Tuyên)
Cũng cần nhấn mạnh, khác với “nhạc lính”, đối tượng của nhạc đỏ không chỉ là người lính chính quy, nghĩa là bộ đội, mà bao gồm luôn những thành phần khác như du kích địa phương hay thanh niên xung phong, tóm lại là những người chiến đấu.
Quả pháo ơi, trên đường xa có mỏi, suốt đêm ngày có đói hay chăng, đường dài sức nặng càng tăng.
Cùng nhau mang nặng tình chiến đấu, khó khăn chẳng rời.
Chị em ơi, mỗi trái đạn đây mang tấm lòng to.(…)
Quả pháo ơi sao mà yêu như đứa trẻ, suốt đêm ngày ta bế trên vai.
Đường về đô thị còn xa, cùng nhau mang nặng tình cứu nước, có ta có mình. Chị em ơi mỗi trái đạn đây mang tấm lòng ta. Cùng các anh góp lửa diệt thù. Dù bom rơi, dù bao bốt đồn, mong các anh yên lòng, từng quả pháo trên tay anh. Chị em ơi niềm tin thắng lợi thôi thúc ta lên đường. Kìa hỏa tuyến đang chờ ta.(Cô gái Sài Gòn đi tải đạn/Lư Nhất Vũ)
Nhạc đỏ gồm các chủ đề chính: thúc đẩy tinh thần chiến đấu của mọi người trong cuộc chiến đấu chống Mỹ và VNCH, ca ngợi đảng Cộng Sản Việt Nam, ca ngợi Hồ Chí Minh và các chính sách và chủ trương của nhà nước Cộng Sản.
Tóm lại, đó là loại nhạc tuyên truyền.
Chúng chỉ thuần túy là nghệ thuật tác động tâm lý. Có thể nói, chúng là một hình thức nghị quyết được diễn đạt bằng âm thanh. Đó là một nỗ lực thay đổi diện mạo của hiện thực. Hay nói khác đi, loại bỏ hiện thực. Nó không quan tâm đến cái cụ thể, càng không quan tâm đến cả cái hư cấu, mà quan tâm đến việc làm tê liệt khả năng nhận thức hiện thực. Người lính
trong nhạc không như là một thân phận, một con người mà là một thiết bị được vận dụng bởi một bộ máy lớn lao và tinh vi. Do đó, nhạc đỏ khi nào nghe cũng rộn ràng, phấn khởi. Lời ca như chất men, kích thích niềm lạc quan, sự tiến tới. Và tạo tâm lý căm thù.
Như bao cô gái ở trên non, cô gái sông Ba đầu búi tóc thon./Tay vót chông miệng hát không nghỉ.
(…) Chim hót không hay bằng tiếng hát em./Mỗi mũi chông nhọn hoắc căm thù./Xiên thây quân cướp nào vô đây.
(Cô gái vót chông/Hoàng Hiệp)
Để bảo đảm cho hiệu quả lâu dài của lời ca tiếng hát và các sản phẩm nghệ thuật khác, nhà nước Cộng Sản có cả một chính sách rất chặt chẽ nhằm loại bỏ tất cả các yếu tố đưa đến sự nản lòng: giấu cái chết của lính, giữ toàn bộ thư từ trao đổi giữa người lính và gia đình, tạo tâm lý cảm tử, tuẫn giáo.
Lời ca nói chung là những khẩu hiệu cộng thêm với một số diễn đạt tình cảm chung chung vô thưởng vô phạt, bảo đảm không bị “phạm húy”. Chúng quan tâm đến lập trường hơn là sự kiện, quan tâm đến sự thúc đẩy, động viên hơn là bày tỏ tâm tình.
Nhạc sĩ rốt cuộc chỉ là cái máy viết nhạc. Đọc qua những nhận xét rời của Nguyễn Thụy Kha hay “Hồi ký của một thằng hèn” của Tô Hải, ta sẽ thấy rõ hơn tính cách máy móc của người nhạc sĩ dưới chế độ Cộng Sản.
Trong bài viết “Một thời nhạy cảm với ca từ”, Nguyễn Thụy Kha cho thấy cách kiểm soát những người sáng tác ca khúc chặt chẽ, chi li của bộ máy nhà nước chuyên chế.
“Mừng HN giải phóng và góp phần kêu gọi đồng bào miền Bắc không di cư vào Nam, Đoàn Chuẩn đã viết một tình khúc về mùa xuân HN rất đặc sắc là “Gửi người em gái miền Nam”.
Bài hát đã được tài tử Ngọc Bảo thu thanh tại Đài Tiếng nói VN. Khi phát trên làn sóng điện, lập tức Gửi người em gái… nhận được những ý kiến phê bình rằng lời lẽ vừa ủy mị vừa vô chính trị(!), vì muốn có thống nhất thì phải đấu tranh, không làm gì có chuyện “rồi ngày thống nhất đến rất nhanh không ai ngờ” viễn vông như thế. Sự phê phán này đã khiến nhạc sĩ Đoàn Chuẩn không còn đủ cảm xúc để tiếp tục con đường sáng tác âm nhạc nữa. Ông đã dừng hẳn sáng tác.
Cũng thời kỳ này, sau Hoàng Việt, Phạm Tuyên viết hợp xướng “Miền Nam anh dũng và bất khuất” cho Đoàn Ca nhạc Đài Tiếng nói VN trình diễn trên làn sóng hồi mùa thu 1960.
Một hợp xướng hừng hực tinh thần cách mạng như vậy mà có cán bộ lãnh đạo khi nghe ca từ “Máu thắm máu kêu trả máu/ Đầu oan kêu trả đầu” cũng đặt ra câu hỏi: “Cái ấy định đòi ai để trả nợ máu đây?” May cho Phạm Tuyên, ca từ nói trên là lấy từ diễn ca 30 năm đời ta có Đảng của Tố Hữu.
Cũng vì những nhận định “lửng lơ” về ca từ như thế mà “Tình em” của Huy Du sau công diễn cũng “bỏ xó” hơn chục năm. Cũng vì những ám chỉ ác nghiệt như vậy mà những sáng tác của Vũ Ngọc Quang như “Nón bài thơ”, “Gửi người em gái An-giê”, hay của Thái Quý như “Tiếng hát trên tiền tiêu Tổ quốc” đều bị liệt vào loại có vấn đề.
Vũ Ngọc Quang vì uất quá mà bỏ hẳn đam mê âm nhạc, chuyển sang dịch tiếng Pháp. Thái Quý thì từ đó ít cảm hứng đi, không thể thăng hoa như “Tiếng hát trên tiền tiêu Tổ quốc” được nữa.
Cũng vì những cái án không thành văn như thế mà “Bài ca tâm tình người thủy thủ” của Hoàng Vân – thơ Hà Nhật, đã bị cấm như cấm nhạc vàng.
Hoàng Vân đã lao đao, Hà Nhật sống ở Quảng Bình còn lao đao hơn nữa suốt một thời chống Mỹ.” (4)
Nhưng có lẽ không có tác giả nào vẽ lên một cách cặn kẽ và sống động thực trạng âm nhạc miền Bắc trong bộ máy kềm kẹp của nhà nước bằng Tô Hải.
Khác với cách viết nhẹ nhàng của Nguyễn Thụy Kha, Tô Hải nói thẳng, nói ngay, nói không giấu giếm, không úy kỵ, không cần rào trước đón sau về “bản lai diện mục” của nền âm nhạc đó. “Hồi ký của một thằng hèn” chất ngất sự kiện, chất ngất đắng cay, chất ngất phẫn nộ của một người trong cuộc. Sau đây là một vài trích đoạn:
Nổi đình đám và ồn ào nhất, nhưng cũng sớm mất dạng nhất là hàng loạt bài hát với đề tài đào mương, chống hạn, làm thủy lợi. Những Cờ Ba Nhất, Sóng Duyên Hải, Gió Đại Phong ra đời một cách…rình rang, với mục đích “trình làng” – đúng ra là trình Đảng! Sự “tiến bộ” trong tư tưởng của nhạc sĩ, sau khi thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng, đều được “ép” ra đời…ông ổng!
Riêng tôi, về nông nghiệp, tôi đã “rặn” ra một …đống, nào Nước Đã về Đồng, Bài Ca Của Đội Thủy Lợi được giải của…bộ Thủy Lợi! Về công nghiệp, chỉ riêng đề tài hòn than thôi, tôi đã viết tới…6 bài! Nào Mỏ Đẹp Mỏ Giàu, Bài Ca Từ Trong Lòng Đất, Hành Khúc Công Nhân Mỏ…nào Mai Đây Con Lại Lên Tầng, Lên Đèo Ngang…Về điện, về xi măng, về tất cả…những gì đi thực tế cũng có ngay tác phẩm, tôi cũng được đề cao, khen thưởng, ít nhất cũng do cấp bộ!
Tóm lại tao, mày, nó, chúng tôi, các anh, chúng nó…đều làm dối, nói dối, khen nhau dối…” (5)
“Sống hay chết trong âm nhạc hiện thực xã hội chủ nghĩa chỉ là do ba cái khẩu hiệu “Giết, giết, giết! Chiến thắng!” hoặc “Muôn năm Bác Hồ, muôn năm Đảng Cộng Sản Việt Nam”, hoặc “Người về đem tới ngày vui…Đảng đã cho tôi sáng mắt, sáng lòng”, còn âm nhạc thì đúng là…”bố ai biết được” tôi nói gì ở cái nước Việt Nam ù ù cạc cạc về âm nhạc này! Thời chống Mỹ, giới âm nhạc miền Bắc cứ như trứng mùa… đẻ non. Đủ kiểu bài hát nôm na chưởi cha mách qué, viết ra chỉ sau khi động viên 15 phút là…hoàn thành!”(6)
....Trong lúc đó, là một xã hội mở hơn nhiều so với xã hội đóng kín của miền Bắc Cộng Sản, người miền Nam có cơ hội để bày tỏ chính mình. Qua văn, thơ, hội họa, nhiếp ảnh và qua nhạc. Trong suốt những tháng năm dài chinh chiến, người lính là hình ảnh nổi bật trong cuộc sống của xã hội miền Nam. Hình ảnh đó gắn chặt với cuộc chiến, diễn ra từng ngày từng giờ trên khắp đất nước.
Gia đình nào, không ít thì nhiều, cũng đều có thân nhân nằm trong quân đội. Vả lại, ngay cả nếu không có thân nhân (điều này khá hiếm), thì cũng có bạn bè, người hàng xóm hay người yêu là lính. Những thắng, bại trên chiến trường của người lính đều nhất nhất ảnh hưởng đến cuộc sống của mọi người. Và bi kịch của chiến tranh gắn liền với bi kịch cá nhân của từng người lính.
Do đó, có nhiều, khá nhiều những bài hát đề cập đến người lính hoặc dành riêng hẳn cho đề tài người lính, gọi là “nhạc lính”.
Nhạc lính, trước hết, nói về người lính, đã hẳn. Mà cũng là nói về chiến tranh. Về một xã hội vùng vẫy để tồn tại, để thích nghi với hoàn cảnh bom đạn. Và mơ ước. Nếu gạt qua một bên vấn đề kỹ thuật, trình độ, chuyên môn, gạt qua một bên chuyện phản chiến hay trợ chiến, bình dân hay cao cấp, nghĩa là “sến” hay “sang”, lời ca trong nhạc lính (cùng với các sản phẩm văn chương khác) phản ảnh một cách khá trung thực xã hội và tâm tình người miền Nam, đặc biệt là những ngưòi ở thành phố. Những gian khổ, nhọc nhằn, vất vả, tiếc nuối, buồn chán, thất vọng, cay đắng , tủi nhục cùng với ước mơ – những gì vô cùng đời thường, vô cùng dân dã -, tất cả đều được bày tỏ qua lời ca mà không cần phải sử dụng một ẩn dụ xa xôi nào.
Nói chung, nhạc lính đầy tính cách nỗi niềm và mang tính nhân bản rõ nét. Tất nhiên, nhạc lính miền Nam không thiếu những bản nhạc ca ngợi đời sống quân ngũ, ca ngợi tinh thần hy sinh của người lính với nhịp điệu hùng tráng, thúc giục.
Lời ca động viên tinh thần chiến đấu, tạo niềm lạc quan, sự tin tưởng cho người lính xông pha ngoài chiến trường hay vinh danh những gương anh hùng, hy sinh trong cuộc chiến đấu. Nhưng số lượng những bài hát như thế không nhiều so với loại nhạc tâm tình.
Có khá nhiều tác giả viết về người lính: Y Vân, Trần Thiện Thanh,Nhật Ngân, Nguyễn Văn Đông, Lê Dinh, Anh Bằng, Minh Kỳ, Hoài Linh, Huỳnh Anh, Phạm Thế Mỹ, Đinh Miên Vũ, Phạm Đình Chương, Tuấn Khanh, Lam Phương, Trúc Phương, Trầm Tử Thiêng, Phạm Duy, Nguyên Đàm, Nguyên Diệu, Phan Trần… Trong số đó, Trần Thiện Thanh là nhạc sĩ viết nhiều nhất. Không những nhiều nhất, Trần Thiện Thanh còn là người viết sống động nhất, mô tả rất đa dạng nhiều khía cạnh của người lính và đời lính.
Có thể nói sự nghiệp của ông gần như gắn liền với nhạc lính, từ đầu cho đến cuối. Ông ca ngợi đời lính, ca ngợi người lính và cũng không giấu giếm tâm trạng bi lụy của người lính về tình yêu, về mơ ước bị đổ vỡ, về tương lai vô vọng…Ta ghi nhận một vài đặc điểm của nhạc lính:
- Lời ca nhạc lính, phần lớn hay hầu hết, chủ yếu mô tả đời lính, nghiệp lính, những gian khổ của đời lính, mô tả sự chia cách, nhớ nhung, mơ ước ngày đoàn tụ, mơ ước hòa bình.
- Nhạc lính có tính cách động viên hơn là tuyên truyền; có tính tâm sự hơn là thúc đẩy, có tính cách chia xẻ hơn là lên án; có tính cách than thở nhưng không chủ bại.